Như vậy giá trị của vàng trắng được bảo đảm bằng hàm lượng vàng có trong nó, cách tính giá trị của vàng trắng như cách tính giá trị của các loại vàng tây thường (vàng hợp kim, vàng mẩu) trên thị trường .
Trong kỹ nghệ chế tác trang sức, vàng trắng được coi là một phát minh có giá trị cao về kinh tế và mỹ thuật; bởi nó có thể thay thế gần như hoàn toàn Platin là kim loại quý hiếm đắt hơn vàng và rất khó chế tác ra đồ trang sức. Vì Platin có nhiệt độ nóng chảy quá cao cùng các đặc tính khác (Platin có nhiệt độ nóng chảy tới 1700ºC còn vàng trắng có nhiệt độ nóng chảy trên dưới 1000ºC). Nên giá thành từ nguyên liệu và công nghệ chế tác trang sức bằng Platin rất cao, gấp 1,5 đến 2 lần so với vàng trắng. Trong khi đó vàng trắng đã đạt độ bền lý, hóa có ánh kim rực rỡ, với màu trắng tương tự như Platin mà giá thành chỉ tương đương với vàng tây thường.
Vàng trắng có màu trắng tinh khiết, ánh kim lấp lánh cùng vói đặc tính cứng, dẻo khiến vàng trắng phản quang đàn hồi tốt, chịu đựng được ma sát khi đeo dung; vì vậy ít bị hao mòn biến dạng, gẫy đứt, đặc biệt có khả năng giữ chắc các loại đá quý, kim cương trên đồ trang sức.
Vàng trắng mới được phổ cập tại Việt Nam khoảng năm 1997 và nhanh chóng được người tiêu dung ưa thích bởi tính hữu dụng, kinh tế và vẻ đẹp thuần khiết cao quý của nó. Hiện nay trên thị trường thịnh hành 2 loại vàng trắng như vàng 14k(58,3%), 18k(75%). Nhưng phổ biến là vàng trắng 14k.
Vàng trắng ở thị trường Việt nam hiện nay đã được pha chế chủ yếu bằng vàng 24k(99,9%), với hợp kim(Alloy) danh từ chuyên ngành gọi là hội (hợp kim có thành phần kim loại quý) của nước ngoài phổ biến là của Đức, Ý.
Thông thường vàng trắng 14k có mầu trắng đẹp hơn vàng 18k (bởi hàm lượng vàng trong vàng trắng càng cao thì độ trắng càng giảm). Nhưng hiện nay do áp dụng công nghệ mới vào sản xuất, công ty vàng bạc đá quý Bảo Tín Minh Châu đã chế tác thành công loại vàng 70%, 75% có mầu trắng bóng, nguyên bản không cần xi mạ có màu sắc và cơ tính tương đương Platin(PT900). Mặc dù ở độ tuổi này vàng rất khó trắng.
Trang sức bằng vàng trắng sau khi chế tác để nguyên bản có có ánh kim lấp lánh , màu trắng sáng có ánh vàng rất nhẹ của vàng gốc tạo cho trang sức có hồn và một vẻ đẹp riêng biệt ;thanh khiết, sâu lắng khác hẳn với màu trắng xám của Inox, trắng lạnh của đồ mạ crom, trắng nhạt của bạc. Trên thế giới quan niệm màu sắc đặc trưng của vàng trắng sẽ tôn tạo tính cách của người đeo dùng nó.
Vàng ta là gì?
Theo quy ước chung trên thế giới, có hai loại vàng chính thống được chấp nhận là vàng 18K và vàng 24K. Karat – ký hiệu K, đơn vị đo độ tinh khiết của vàng. 1K = 1/24 độ tinh khiết.
Vàng 24K chứa 99,99% vàng ròng, còn vàng 18K có hàm lượng vàng trong sản phẩm tương đương 75%. Phụ liệu tham gia vào quá trình điều chế từ vàng 24K thành vàng 22K, 18K, 14K… gọi là “hội” (Hợp kim – Alloy) như đồng, bạc… Ví dụ vàng 75% thì trong đó đồng và bạc hoặc một “hội” khác chiếm 25%.
Vàng 24K còn gọi là vàng ròng, vàng nguyên chất hay vàng hàm lượng 99,99%. Vàng 24K có màu vàng ánh kim đậm nhất, nhưng khá mềm nên nữ trang làm bằng vàng 24K không được đa dạng vì khó gắn đá quý và đánh bóng. Do đó hầu hết trang sức được làm bằng vàng thấp tuổi với nhiều màu sắc khác nhau, có độ cứng cao hơn, dễ gắn hột và đánh bóng. Tùy theo nhu cầu khác nhau của đồ trang sức mà người thợ kim hoàn sẽ pha các kim loại khác nhau vào với vàng. Nếu bạn cần mầu trắng sáng thì họ sẽ pha Nickel(Ni) hoặc Palladium (Pd), nếu cần ngả về đỏ hoặc hồng thì pha với Đồng (Cu) trong khi Bạc (Ag) sẽ cho hợp kim vàng có màu lục.
Dân Việt Nam ta sử dụng nhiều loại vàng trong nữ trang. Trên thị trường, các tên gọi hàm lượng thường theo thói quen, nên hơi lẫn lộn giữa các cách, lúc thì gọi theo tuổi 10, hoặc theo karat, khi thì gọi theo các số 9, rồi có lúc lại là phần trăm. Loại vàng nữ trang phổ biến nhất là vàng 18K (75%) và 14K (58,3%), ngoài ra còn có nữ trang 4 số (24K hay 99,99%), 2 số (23,7K hay 99%), 68% (16,3K), 9K (37,4%)… Hai loại màu dùng nhiều là vàng và trắng. Riêng màu vàng thì có thể có nhiều loại sắc như vàng chanh, vàng hồng, vàng đỏ… Vàng màu trắng dùng rất nhiều sau này, nhất là trong các nữ trang gắn kim cương hoặc hột Mỹ. Có một số người gọi nhầm vàng trắng là bạch kim. Thường thì nữ trang bạch kim sẽ cao giá hơn vàng trắng.
Vàng tây là gì?
Vàng tây là hợp kim giữa vàng và một số kim loại “mằu” khác. Tùy theo hàm lượng vàng mà ta sẽ có nhiều loại vàng tây ví dụ như vàng 9k, vàng 10k, …vàng 14k, vàng 18k…
Theo quy định quốc tế thì hàm lượng vàng 99.99% (gần 100%) gọi là vàng 24k. Vậy thì hàm lượng vàng của các loại vàng khác sẽ giảm theo số “k” tương ứng. Cách tính: lấy số “k” chia cho 24. sẽ bằng hàm lượng vàng.Và đó củng chính là “tuổi” vàng.
Ví dụ: muốn biết hàm lượng vàng trong vàng 18k là bao nhiêu thì ta lấy 18 chia cho 24 bằng 0.75. Như vậy trông vàng 18k chỉ có 75% là vàng. Còn lại 25% la hợp kim khác, người trông nghề gọi là “hội”.
Tương tự ta sẽ có bảng hàm lượng vàng của các loại vàng tây thông dụng:
Lưu ý: Tùy theo quốc gia, lảnh thổ ,địa phương …tập quán mà người ta dùng các loại vàng tây khác nhau, thậm chí còn “zu zi” hàm lượng vàng trông một loại vàng.
Người Mỹ thường xài vàng 14k trong khi đó người Canada lại thích vàng 21k. Còn người Pháp thì chơi 18k. Người Ý thì “quá bèo” chỉ xài vàng 9k và 10k. Việt nam ta thì 24k và 18k. đạc biệt vàng 18k ở Việt nam có 3 loại: Loại 75%, Loại 70% va loại 68%. Tùy theo khách hàng yêu cầu.
Thông thường chúng ta còn hay gọi vàng dùng trong trang sức là “vàng tây”. Vàng nguyên chất khá mềm nên rất khó để sử dụng trong việc tạo ra các đồ trang sức bền, sáng bóng và gắn đá quý. Do vậy người ta thường hay sử dụng vàng 22K hoặc 18K để làm vàng trang sức. Tùy theo nhu cầu khác nhau của đồ trang sức mà người thợ kim hoàn sẽ pha các kim loại khác nhau vào với vàng. Nếu bạn cần mầu trắng sáng thì họ sẽ pha Nickel(Ni) hoặc Palladium (Pd), nếu cần ngả về đỏ hoặc hồng thì pha với Đồng (Cu) trong khi Bạc (Ag) sẽ cho hợp kim vàng có màu lục.